Options
Nhận diện, đánh giá vai trò của các bên liên quan tới quyết định của Hội đồng thành viên doanh nghiệp nhà nước qua tình huống Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam
Date Issued:
2019
Author(s):
Vũ, Ngọc Bảo
FSPPM
Abstract:
Tác giả sử dụng chương 5 “Quan hệ với các bên có quyền lợi liên quan và hoạt động kinh doanh có trách nhiệm” của bộ tiêu chí “hướng dẫn quản trị tốt doanh nghiệp nhà nước của OECD năm 2015” (OECD (2015)) để tìm hiểu về quy định của CBLQ. Khung phân tích CBLQ của Mendelow (1981), khung phân tích liêm chính của tổ chức minh bạch quốc tế, lý thuyết về quản trị nhà nước, thực thi chính sách, quản trị doanh nghiệp để tìm hiểu sự hình thành, khả năng tác động của CBLQ lên hệ thống quản trị của PVN. Tác giả luận văn nhận thấy hệ thống quản trị của PVN còn chịu tác động của nhiều CBLQ khác mà các tổ chức Đảng là điển hình. Quy định số 69-QĐ/TW “về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của Đảng ủy cấp trên cơ sở trong doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn nhà nước chi phối” giúp các tổ chức Đảng có quyền lực chính trị rất lớn, ảnh hưởng quyết định từ khâu lập kế hoạch, xây dựng chiến lược, tổ chức và giám sát sản xuất kinh doanh cũng như các quyết định về nhân sự của hệ thống quản trị PVN. Đa số thành viên của hệ thống quản trị của PVN là Đảng viên, họ gắn quyền lợi chính trị với các cơ sở Đảng nên ưu tiên thực hiện các nghị quyết của Đảng. Đồng thời họ cũng là công chức nhà nước, thừa hành nhiệm vụ theo ủy quyền và được bổ nhiệm từ bên ngoài PVN nên khả năng ra các quyết định quản trị độc lập bị hạn chế. Bên cạnh đó PVN chưa có các quy định chuẩn mực hay cơ chế giám sát đảm bảo quản trị tốt, nên để lọt những tác động của CBLQ lên hệ thống quản trị PVN theo hướng tiêu cực. Tác giả đề xuất PVN cần công bố mối liên hệ với CBLQ. Đảm bảo một hệ thống quản trị hoạt động độc lập, thực hành lãnh đạo liêm chính, có cơ chế giám sát, tôn trọng các nguyên tắc thị trường, các chuẩn mực tài chính, và chẩn mực quản trị quốc tế như OECD (2015) để từ đó giúp PVN hoạt động hiệu quả hơn.